Chào mừng quý khách đã đến với Trang Thông tin điện tử Cục Thống kê TP.Cần Thơ - Địa chỉ: 8A Nguyễn Văn Cừ, Phường An Bình, Quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ
Trang chủ
           Giới thiệuv
Tin tức sự kiệnv
Lĩnh vực chuyên mônv
Ấn phẩm thống kê
Văn bản pháp lý
Văn bản của thành phố
Văn bản của Cục
Văn bản của Ngành
Văn bản của Nhà nước
Tin tức & Sự kiện
Tình hình KT-XH quý IV và năm 2022 - 27/12/2022

            Năm 2022, tình hình kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, khó lường; xung đột quân sự giữa Nga và U-crai-na xảy ra và còn kéo dài; lạm phát duy trì ở mức cao; xu hướng tăng lãi suất, thu hẹp chính sách tiền tệ, tài khóa ở nhiều quốc gia; thời tiết diễn biến bất thường ở nhiều châu lục… Tại thời điểm tháng 12/2022, hầu hết các tổ chức quốc tế đều điều chỉnh tăng kinh tế toàn cầu năm 2022 so với các dự báo đưa ra trước đó. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2022 đạt 3,2% (giữ nguyên so với dự báo trong tháng 7/2022). Theo báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu, Fitch Ratings (FR) điều chỉnh tăng dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2022 từ mức 2,4% (tại thời điểm tháng 9/2022) lên 2,6% do tăng trưởng kinh tế thế giới trong Quý III/2022 cao hơn dự kiến. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), tăng trưởng GDP toàn cầu được dự báo đạt 3,1% năm 2022, điều chỉnh tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo tại thời điểm tháng 9/2022. 

Trong nước, với quyết tâm phục hồi và phát triển kinh tế, tạo đà hoàn thành mục tiêu kinh tế - xã hội năm 2022, Chính phủ đã tập trung chỉ đạo các địa phương thực hiện quyết liệt, đồng bộ, có hiệu quả các Nghị quyết của Trung ương, đặc biệt là tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ ban hành quy định tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19”; Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình, đẩy nhanh tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hỗ trợ kịp thời các đối tượng bị ảnh hưởng theo quy định, thúc đẩy các hoạt động sản xuất, kinh doanh, phục hồi tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trên cơ sở các Nghị quyết, Chương trình của Chính phủ thành phố đã triển khai nhiều giải pháp tích cực để vừa kiểm soát có hiệu quả dịch bệnh, vừa phục hồi và phát triển kinh tế, cùng với sự nỗ lực vượt khó của cộng đồng doanh nghiệp, người dân. Nhiều ngành kinh tế đã khôi phục mạnh mẽ và đạt mức tăng trưởng cao hơn trước khi dịch Covid-19 xảy ra như: Công nghiệp chế biến, chế tạo; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng… Kết quả đạt được của các ngành, lĩnh vực trong quý IV và năm 2022 như sau:

 I. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn

Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) quý IV/2022 ước tính tăng 7,40% so với cùng kỳ. GRDP năm 2022 tăng 12,64% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay, do cùng kỳ năm trước dịch Covid-19 ảnh hưởng nghiêm trọng tới mọi lĩnh vực của nền kinh tế, thành phố thực hiện giãn cách xã hội kéo dài để phòng chống dịch bệnh; các hoạt động kinh tế năm 2021 bị ngưng trệ.

Quý IV/2022, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) ước tăng 7,40% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 0,63%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,22%; khu vực dịch vụ tăng 8,55%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 2,76%.

Với tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn ước năm 2022 tăng 12,64% so cùng kỳ năm trước, thành phố Cần Thơ là địa phương có tốc độ tăng GRDP đứng hạng thứ 6 so với cả nước; xếp thứ 2 trong vùng ĐBSCL (sau Hậu Giang, tăng 13,94%) và 5 thành phố trực thuộc Trung ương (sau Đà Nẵng, tăng 14,05%). Lần đầu tiên thành phố có tốc độ tăng trưởng đạt 2 con số từ trước cho đến nay, đây là tín hiệu khả quan cho thấy tình hình khôi phục, phát triển kinh tế - xã hội những năm tiếp theo.

Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế năm 2022, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,49%, đóng góp 0,29 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 18,18%, đóng góp 5,21 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 13,19%, đóng góp 6,88 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 3,37% đóng góp 0,26 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung của nền kinh tế thành phố.

Về cơ cấu kinh tế năm 2022, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 9,65%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 31,03%; khu vực dịch vụ chiếm 52,47%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 6,85%.

2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

a) Nông nghiệp

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2022, Thành phố Cần Thơ tiếp tục phát triển vườn cây ăn trái theo hướng quy hoạch vùng chuyên canh, chất lượng cao, tạo mối liên kết tập trung quy mô phù hợp, nhằm thúc đẩy tăng tính cạnh tranh sản phẩm trái cây trên thị trường, từng bước khai thác lợi thế tiêu thụ nội địa, chế biến xuất khẩu và phát triển du lịch sinh thái. Nuôi trồng thủy sản phát triển khá do nhu cầu các sản phẩm thủy sản chủ yếu cá tra; tuy nhiên còn gặp nhiều khó khăn do giá nguyên vật liệu ở mức cao.

Cây lúa: Tổng diện tích gieo trồng được 216.384 ha, giảm 2,69% so với năm 2021. Trong đó, diện tích gieo trồng lúa đông xuân được 76.039 ha, giảm 1.148 ha so với cùng kỳ; lúa hè thu 73.506 ha, giảm 1.688 ha; lúa thu đông 66.839 ha, giảm 3.156 ha. Năng suất lúa cả năm ước đạt 63,16 tạ/ha, giảm 0,70% so với năm 2021, bằng 0,44 tạ/ha; sản lượng lúa ước đạt 1.366.594 tấn, giảm 3,37% so với cùng kỳ.

Diện tích, năng suất, sản lượng lúa giảm so với cùng kỳ 2021 do người dân chuyển đổi những diện tích đất lúa nhỏ lẻ, nằm xen canh với những vườn cây ăn trái hay bị chuột cắn phá, khó tưới tiêu hay bị dịch bệnh dẫn đến năng suất thấp qua trồng cây lâu năm và trồng một số loại cây hằng năm khác, bên cạnh đó thời tiết năm nay không thuận lợi, cây lúa bị nhiễm bệnh giai đoạn trổ bông, đất khô hạn cỏ mọc nhiều lấn áp cây lúa nên năng suất lúa năm nay thấp hơn so với cùng kỳ năm trước. Ngoài ra, việc giá vật tư đầu vào tăng cao cũng khiến chi phí đầu tư cho các vụ lúa không đạt như những năm trước nên năng suất cũng thấp hơn.

Cây hàng năm khác: Tổng diện tích cây hàng năm khác đạt 17.337,9 ha, tăng 0,09% so cùng kỳ năm 2021. Trong đó, diện tích gieo trồng cây rau, đậu các loại và hoa ước đạt 14.532 ha, tăng 1,12% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng cây hàng năm đạt 205.766 tấn, tăng 0,39% so với cùng kỳ.

Cây lâu năm: Tổng diện tích cây lâu năm đạt 25.972 ha, tăng 4,17% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, diện tích cây ăn quả sơ bộ năm 2022 đạt 24.594 ha, chiếm 94,69% trong tổng diện tích cây lâu năm, tăng 5,03% so với cùng kỳ. Sản lượng cây lâu năm đạt 201.681 tấn, tăng 14,43% so với cùng kỳ.

Diện tích cây ăn trái ngày càng mở rộng, hình thành một số vùng sản xuất tập trung chuyên canh với diện tích 10.392 ha, sản lượng trên 100 nghìn tấn như nhãn, mận, vú sữa,… góp phần nâng cao giá trị sản phẩm gắn kết tiêu thụ, tăng lợi thế cạnh tranh và có tiềm năng lớn phát triển du lịch sinh thái. Thành phố có trên 477 ha cây ăn trái sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP (trong đó có 16 ha đạt tiêu chuẩn GlobalGAP). Trong năm 2022, đã cấp và cấp lại 17 mã vùng trồng cây ăn trái của 06 đơn vị với tổng diện tích 150 ha (Lũy kế đã cấp và đang quản lý 46 mã vùng trồng của 16 đơn vị trên các loại cây trồng như nhãn, vú sữa, xoài xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc, Mỹ, Úc, Trung Quốc, EU. Tổng diện tích bao tiêu trong mã vùng trồng là 602 hộ); 71 điểm vườn kinh doanh du lịch. 

Nguyên nhân diện tích cây ăn quả tăng là thời gian qua, các quận, huyện trên địa bàn thành phố Cần Thơ được các cấp chính quyền, ngành Nông nghiệp và phát triển Nông thôn hỗ trợ đầu tư đê bao khép kín bảo vệ vườn cây ăn quả, vận động nông dân cải tạo vườn tạp và đẩy mạnh chuyển đổi một số diện tích đất trồng lúa, màu kém hiệu quả sang phát triển vườn cây ăn trái để tăng thêm hiệu quả kinh tế.

Tổng sản lượng cây lâu năm ước tính đạt 201.681 tấn, tăng 14,43% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, sản lượng cây ăn quả 194.507 tấn, tăng 15,60% so với cùng kỳ. Sản lượng cây lâu năm tăng cao là do: Những diện tích trồng mới, chuyển đổi từ đất trồng màu sang cây ăn quả từ các năm trước đã vào giai đoạn thu hoạch rộ, bà con nông dân được ngành Nông nghiệp hỗ trợ về kỹ thuật chăm sóc cây trồng nên ngày càng tiếp cận được các kỹ thuật tiên tiến. Bên cạnh đó, do bà con phun thuốc kích thích cho trái mùa nghịch nhiều vụ trong năm nên sản lượng tăng mạnh hơn cùng kỳ năm 2021. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được về phát triển vườn cây ăn trái, nhiều nhà vườn Cần Thơ đã gặp nhiều khó khăn lớn vì giá phân bón cùng hàng loạt chi phí tăng cao từ năm 2021. Sau một thời gian tăng cao, gần đây giá nhiều loại phân bón có chiều hướng bình ổn và giảm trở lại đã phần nào tạo thuận lợi cho nông dân.

Chăn nuôi: Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn thành phố Cần Thơ không xảy ra dịch bệnh trên gia súc, gia cầm (bệnh tai xanh ở heo, lở mồm long móng gia súc và cúm gia cầm) tạo điều kiện thuận lợi cho ngành. Chăn nuôi chuyển biến rõ nét về tổ chức sản xuất, chăn nuôi trang trại, tập trung theo chuỗi khép kín, an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh. Ước tính năm 2022, tổng đàn heo hiện có 137.182 con, tăng 13,08% so với cùng kỳ; đàn trâu 279 con, tăng 16,25%; đàn bò 4.412 con, tăng 8,30% so với cùng kỳ; gia cầm 2.404 nghìn con, tăng 6,90% so với cùng kỳ.

Sản phẩm chăn nuôi: Quý IV năm 2022, sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng ước tính 3.919 tấn, tăng 8,59% so với cùng kỳ; thịt trâu 12 tấn, tăng 4,55%; thịt bò 115 tấn, đạt 100%; thịt gia cầm 2.064 tấn, tăng 10,90%; sản lượng trứng gia cầm 29.212 nghìn quả, tăng 13,54%. Tính chung năm 2022, sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng 19.695 tấn, tăng 4,58% so với cùng kỳ; thịt trâu 47 tấn, tăng 4,44%; thịt bò 345 tấn, tăng 4,96% và thịt gia cầm 8.437 tấn, tăng 13,33%; sản lượng trứng gia cầm 101.293 nghìn quả, tăng 13,27%.

Toàn thành phố Cần Thơ hiện có 58 cơ sở sản xuất và mua bán sản phẩm giống vật nuôi. Trong đó có 55 cơ sở chăn nuôi heo sản xuất con giống và tinh heo (35.000 con heo giống/năm và 100.000 liều tinh heo/năm), 03 cơ sở chăn nuôi vịt sản xuất con giống (300.000 con vịt giống/năm).

b) Lâm nghiệp

Số lượng cây lâm nghiệp phân tán trồng mới năm 2022 là 870,7 nghìn cây, tăng 0,44% so với cùng kỳ năm 2021, do quá trình đô thị hóa đang được đẩy mạnh, diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp. Cây phân tán chủ yếu trồng để lấy bóng mát ở gần nhà, trường học và hai bên đường lộ, nhu cầu trồng cây phân tán lấy củi, gỗ tạp trong hộ nhân dân ngày càng giảm, do giá cả không cao, lợi ích kinh tế thấp, hộ dân phá cây gỗ tạp để trồng cây ăn quả.

Sản phẩm khai thác lâm nghiệp năm 2022 so với cùng kỳ năm trước tăng, giảm không đều ở một số chỉ tiêu như: gỗ tăng nhẹ 1,62%; củi tăng 0,20%; tre giảm 16,87%; trúc giảm 22,34%; măng giảm 12,33%; lá dừa nước giảm 23,08%. 

c) Thủy sản

Diện tích thả nuôi thủy sản ước tính năm 2022 (không bao gồm diện tích sản xuất giống) ước đạt 5.465 ha, giảm 4,61% so với cùng kỳ.

Tổng sản lượng thủy sản quý IV ước tính đạt 71,08 nghìn tấn (chủ yếu sản lượng cá), tăng 6,08% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 68,33 nghìn tấn, tăng 6,28%; sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 2,75 nghìn tấn, tăng 1,52%. Tính chung cả năm 2022, tổng sản lượng thủy sản ước tính đạt 235,74 nghìn tấn, tăng 8,02% so với năm 2021, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 228,48 nghìn tấn, tăng 7,97%; sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 7,25 nghìn tấn, tăng 9,46% so với cùng kỳ năm 2021.

Nguyên nhân sản lượng cá tra năm 2022 tăng cao do một số hộ nuôi không còn vốn để thả nuôi lại vì năm 2021 bị thua lỗ, dẫn đến thiếu nguồn cung cho thị trường xuất khẩu, doanh nghiệp nâng giá thu mua lên, nông hộ xuất bán cá ồ ạt để tranh thủ với giá đang cao, từ đó diện tích thu hoạch và sản lượng cá tra tăng mạnh so với cùng kỳ.

3. Sản xuất công nghiệp

Sản xuất công nghiệp đang trên đà phục hồi và tăng mạnh, các doanh nghiệp tập trung đẩy nhanh tiến độ sản xuất hàng hóa phục vụ nhu cầu tiêu dùng tăng cao của người dân những tháng cuối năm, dịp Tết Dương lịch năm 2023 và Tết Nguyên đán Qúy Mão. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) quý IV/2022 ước tính tăng 29,66% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2022, IIP tăng 29,59% so với năm 2021, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 35,38%.

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng Mười Hai ước tính tăng 4,45% so với tháng trước và tăng 18,98% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,95% và tăng 19,37%; sản xuất và phân phối điện tăng 6,46% và tăng 18,67%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,21% và tăng 7,77%.

Ước tính quý IV/2022, chỉ số IIP tăng 29,66% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 34,72%; sản xuất và phân phối điện tăng 14,54%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 12,17%. Tính chung cả năm 2022, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 29,59% so với năm 2021, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 35,38%; sản xuất và phân phối điện tăng 12,83%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 9,59%.

Trong năm 2022, nhiều ngành lĩnh vực có sản lượng sản phẩm công nghiệp tăng khá cao so với cùng kỳ, cụ thể: Phi lê đông lạnh ước tăng 37,02% so với cùng kỳ; tôm đông lạnh tăng 28,09%; thủy hải sản đã được chế biến bảo quản khác tăng 77,87%; dầu thực vật khác dạng thô tăng 91,94%; sản phẩm xay xát gạo tăng 30,55%; thức ăn gia súc tăng 36,35%; nước ngọt (cocacola, 7 up,..) tăng 35,09%;  dược phẩm chứa hoóc môn nhưng không có kháng sinh dạng viên tăng 49,67%; thùng chứa, bể và các loại đồ chứa tương tự dung tích trên 300 lít bằng plastic tăng 113,61%...; một số ít sản phẩm giảm so với cùng kỳ như: Bia đóng lon giảm 2,69%; nước yến và nước bổ dưỡng khác giảm 65,03%; thuốc lá có đầu lọc giảm 12%.

Hiện nay, còn hơn 1 tháng nữa là đến Nguyên đán Quý Mão 2023, nhiều doanh nghiệp đang tập trung và đẩy mạnh sản xuất để có đủ hàng hóa cung ứng ra thị trường vào dịp Tết Nguyên đán sắp tới. Một số doanh nghiệp đã thay đổi bao bì sản phẩm “Mừng xuân” để phục vụ thị trường Tết, hầu hết các đại lý bán buôn và cửa hàng bán lẻ đã bắt đầu dự trữ hàng hoặc đặt cọc trước tiền mua hàng cho đơn vị sản xuất. Vì vậy khối lượng sản xuất sản phẩm tăng cao hầu hết các ngành và các lĩnh vực. Bên cạnh đó, tình hình xuất khẩu gạo và thủy sản những tháng cuối năm khá thuận lợi, nhiều doanh nghiệp đã tranh thủ cơ hội ký hợp đồng, thậm chí có những doanh nghiệp ký được hợp đồng xuất khẩu với đối tác cho đến hết năm 2023.

 Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tháng 12 năm 2022 tăng 50,18% so với tháng cùng kỳ. Năm 2022, chỉ số tiêu thụ ước tăng 84,80% so với cùng kỳ. Một số ngành có mức tiêu thụ tăng cao, như: Chế biến, bảo quản thủy sản tăng 34,53% so với cùng kỳ; xay xát và sản xuất bột thô tăng 2,4 lần; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thủy sản tăng 26,14%; sản xuất giày dép tăng 55,82%; sản xuất thuốc tây tăng 49,48%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế từ gỗ tăng 52,23%; sản xuất đinh, đinh mũ, ghim dập, đinh vít, then, đai, ốc, đinh móc tăng 78,21%;… Bên cạnh đó, một số ngành có sản lượng tiêu thụ còn hạn chế, như: In ấn, sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ; sản xuất bi, bánh răng, hộp số, các bộ phận điều khiển và truyền chuyển động…

 Những tháng cuối năm, tình hình xuất khẩu gạo khá thuận lợi, một số doanh nghiệp đang tập trung sản xuất xuất khẩu gạo sang Hàn Quốc, Singapor; theo báo cáo của công ty sản xuất chăn mềm lông vũ, hiện nay công ty vẫn đang tập trung sản xuất để có đủ lượng hàng giao cho đối tác như hợp đồng đã ký kết….điều này góp phần cho tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của thành phố tăng cao.

 Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 01/12/2022, giảm 4,83% so với tháng trướctăng 26,94% so với tháng cùng kỳ. Nguyên nhân, một số quốc gia dần mở cửa trở lại sau đợt giãn cách xã hội, nhiều doanh nghiệp tranh thủ thời cơ kịp giao những đơn hàng đã ký kết cho đối tác, lượng tồn kho sản phẩm công nghiệp thời điểm này được giải phóng đáng kể, hiện nay, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, giao thương trong và ngoài nước không có biến động khác thường, hoạt động sản xuất tăng trưởng cao, vì vậy tồn kho tăng so với cùng kỳ.

Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp ước tháng 12/2022 tăng 0,45% so với tháng trước và tăng 4,84% so với cùng kỳ. Tính chung cả năm 2022, tăng 29,46% so với cùng kỳ, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 15,28%; doanh nghiệp ngoài nhà nước giảm 8,02% và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 3,8 lần.

4. Đầu tư và xây dựng

a) Thực hiện vốn đầu tư

Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý IV/2022 theo giá hiện hành ước đạt 12.754,18 tỷ đồng, tăng 45% so với quý trước và tăng 51,81% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2022, ước đạt 35.524,22 tỷ đồng, tăng 40,63% so với năm 2021, mức tăng này phản ánh đà phục hồi mạnh mẽ của hoạt động sản xuất kinh doanh.

Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý IV/2022 theo giá hiện hành ước đạt 12.754,18 tỷ đồng, tăng 45% so với quý trước và tăng 51,81% so với cùng kỳ năm 2021. Tính chung cả năm 2022 ước đạt 35.524,22 tỷ đồng, tăng 40,63% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, vốn nhà nước đạt 7.909,97 tỷ đồng, tăng 57,19% so với cùng kỳ; vốn ngoài nhà nước đạt 25.993,22 tỷ đồng, tăng 43,68%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 1.589,09 tỷ đồng, tăng 69,57%. 

Chia theo khoản mục đầu tư: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản quý IV/2022 ước đạt 9.260,47 tỷ đồng, tăng 68,38% so với quý III và tăng 69,03% so với cùng kỳ năm trước; vốn mua sắm tài sản cố định dùng cho sản xuất đạt 513,45 tỷ đồng, tăng 15,09% và tăng gấp 2,1 lần; vốn sửa chữa lớn, nâng cấp tài sản đạt 1.705,53 tỷ đồng, giảm 2,64% và tăng 34,06%; bổ sung vốn lưu động đạt 1.201,37 tỷ đồng, tăng 16,65% và giảm 6,05%; vốn khác đạt 73,35 tỷ đồng, tăng 7,39% và giảm   42,70%. Ước tính cả năm 2022, thực hiện vốn đầu tư xây dựng cơ bản đạt  23.037,35 tỷ đồng, chiếm 64,85% tổng vốn đầu tư và tăng 56,17% so với năm trước; vốn mua sắm tài sản cố định dùng cho sản xuất đạt 1.297,98 tỷ đồng, chiếm 3,65% và tăng 52,62%; vốn sửa chữa lớn, nâng cấp tài sản đạt 5.934,39 tỷ đồng, chiếm 16,71% và tăng 25,56%; bổ sung vốn lưu động đạt 5.007,90 tỷ đồng, chiếm 14,10% và tăng 7,65%; vốn khác đạt 246,61 tỷ đồng, chiếm 0,69% và giảm 12,27%.

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý quý IV/2022 ước đạt 3.012,60 tỷ đồng, tăng 83,35% so với quý trước và tăng 79,41% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, vốn ngân sách nhà nước cấp thành phố ước đạt 2.671,80 tỷ đồng, tăng 2,61 lần so với quý trước và tăng 2,57 lần so với cùng kỳ; vốn ngân sách nhà nước cấp quận, huyện ước đạt 340,80 tỷ đồng, giảm 45,11% so với quý trước và giảm 46,54% so với cùng kỳ. Tính chung cả năm 2022, vốn thực hiện ước đạt 6.544,48 tỷ đồng, tăng 41,37% so với năm 2021 và bằng 85,44% kế hoạch năm. Trong đó, vốn ngân sách nhà nước cấp thành phố ước đạt 4.826,72 tỷ đồng, tăng 69,01% so với năm trước và đạt 81,23% kế hoạch năm; vốn ngân sách nhà nước cấp quận, huyện ước đạt 1.717,76 tỷ đồng, giảm 3,15% so với năm trước và đạt 100% kế hoạch năm.

Tình hình thực hiện các công trình chủ yếu của thành phố

 Dự án phát triển thành phố Cần Thơ và tăng cường khả năng thích ứng của đô thị (dự án 3), Dự án có tổng mức đầu tư hơn 9.167 tỷ đồng, được thực hiện bằng nguồn vốn ODA, do Ban quản lý ODA thành phố Cần Thơ làm chủ đầu tư. Kế hoạch vốn năm 2022 được giao 1.032,65 tỷ đồng. Hiện nay, với hơn 10 gói thầu đang được triển khai, các biện pháp đẩy nhanh tiến độ đang được chủ đầu tư và nhà thầu tập trung thực hiện để đảm bảo kế hoạch đề ra.

Công trình xây dựng Âu Thuyền Cái Khế, sau gần 2 tháng triển khai đã đạt tiến độ khoảng 30%, đơn vị thi công đã tập trung nhiều công nhân và phương tiện trên công trình để thực hiện các hạng mục của gói thầu. Hiện tại, đơn vị thi công đang đóng cọc móng cống, cầu Âu Thuyền và trạm bơm, song song là đóng cọc kè và nạo vét lòng kênh.

Công trình xây dựng cầu Trần Hoàng Na, đến nay công trình đạt khoảng 70% tiến độ, đơn vị thi công đang phấn đấu hợp long trước năm 2023.

 Dự án đường Vành đai phía tây nối liền quốc lộ 91 và quốc lộ 61C, dự án do Sở Giao thông vận tải thành phố làm chủ đầu tư, có tổng mức đầu tư 3.837,7 tỷ đồng, đây là dự án thuộc nhóm A loại dự án công trình đô thị. Kế hoạch vốn năm 2022 được giao 1.250,63 tỷ đồng. Dự án có chiều dài toàn tuyến trên 19 km, trong đó điểm đầu giao với quốc lộ 91 và đường tỉnh 922, điểm cuối giao với quốc lộ 61C, trên tuyến có 49 cây cầu. Sau thời gian chuẩn bị các thủ tục ban đầu, ngày 17/11/2022 UBND thành phố chính thức khởi công các gói thầu thuộc dự án. Hiện nay chủ đầu tư đang tiếp tục phối hợp với các đơn vị liên quan đẩy nhanh tiến độ bồi hoàn, hỗ trợ tái định cư để bàn giao mặt bằng cho đơn vị thi công đúng kế hoạch đề ra.

Dự án kè sông Cần Thơ - Ứng phó với biến đổi khí hậu, dự án có tổng mức đầu tư hơn 1.095 tỷ đồng, do Ban quản lý dự án thành phố làm chủ đầu tư, được thực hiện bằng nguồn vốn ODA do cơ quan phát triển Pháp AFD tài trợ. Đây là một trong những dự án trọng điểm của thành phố, sau 4 năm triển khai tiến độ thi công rất chậm, chỉ hơn 60%, nguyên nhân chính vẫn là mặt bằng, hiện nay vẫn còn nhiều hộ dân chưa di dời, chủ đầu tư chưa thể bàn giao mặt bằng cho đơn vị thi công. Mặt khác, khu tái định cư Ninh Kiều sau nhiều năm cũng chỉ mới hoàn thành khoảng 60%, vì vậy những đơn vị và cá nhân bị ảnh hưởng không có nền tái định cư để di dời đến nơi ở mới, bàn giao mặt bằng lại cho chủ đầu tư.

Dự án kè chống sạt l sông Trà Nóc, dự án có tổng mức đầu tư dự kiến hơn 272 tỷ đồng, do Chi cục Thủy lợi (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP Cần Thơ) làm chủ đầu tư, dự án có chiều dài toàn tuyến gần 2 km, tiến độ thực hiện dự án 2022 - 2025. Dự án nhằm chống sạt l bờ sông Trà Nóc (đoạn từ cầu Xẻo Mây đến cầu Rạch Chùa), bảo toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản của dân cư toàn tuyến, cơ sở hạ tầng trong khu vực và các công trình kiến trúc văn hóa ở ven sông.

Dự án Bệnh viện Ung Bướu thành phố Cần Thơ, dự án có tổng mức đầu tư là 1.727,9 tỷ đồng được thực hiện bằng nguồn vốn ODA do Sở Y tế thành phố làm chủ đầu tư, kế hoạch vốn năm 2022 được giao là 1.072,61 tỷ đồng. Hiện tại, dự án vẫn còn đang tạm dừng thi công để thống nhất lại một số điều khoản trong hợp đồng giữa đơn vị tài trợ và chủ đầu tư, đây là một trong những dự án chậm tiến độ của thành phố, UBND thành phố đã đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định điều chỉnh thời gian thực hiện dự án kéo dài đến ngày 11/7/2025. 

Công tác giải ngân: Tính đến ngày 19/12/2022, tình hình giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản còn khá thấp, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn đối ứng thực hiện từ đơn vị thi công, đã giải ngân 6.274,9 tỷ đồng đạt 69,9% so với kế hoạch năm, trong đó ngân sách địa phương 5.315,70 tỷ đồng đạt 69,4%.

Thu hút đầu tư trực tiếp trực tiếp nước ngoài (FDI): Trong tháng 12, thành phố cấp mới 01 dự án, vốn đầu tư 150.000 USD. Lũy kế 12 tháng/2022, cấp mới 06 dự án FDI, vốn đăng ký 174,23 triệu USD; chấm dứt hoạt động 05 dự án với tổng vốn đăng ký 5,41 triệu USD. Hiện nay, trên địa bàn thành phố có 86 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố, tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 2.223,26 triệu USD.

 b) Hoạt động xây dựng 

Hoạt động xây dựng trên địa bàn thành phố có phần sôi động hơn so với cùng kỳ, nhiều đơn vị thi công và chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình xây, một số công trình mới có vốn đầu tư lớn đã được khởi công, nhiều dự án xây dựng trụ sở làm việc, văn phòng cho thuê đang trong giai đoạn hoàn thiện, chuẩn bị đưa vào sử dụng; nhiều công trình xây dựng đường giao thông nông thôn ở các huyện và công trình nâng cấp hẻm, đường nội ô ở các quận đã và đang hoàn thành.

Giá trị sản xuất ngành xây dựng theo giá hiện hành quý IV/2022 ước thực hiện được 5.629,45 tỷ đồng, tăng 22,66% so với cùng kỳ. Trong đó, khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước ước thực hiện được 1.682,04 tỷ đồng, giảm 28,53%; khu vực loại hình khác ước thực hiện được 3.853,66 tỷ đồng, tăng 69,24%.

Giá trị sản xuất ngành xây dựng theo giá hiện hành năm 2022 ước thực hiện được 18.584,97 tỷ đồng, tăng 22,52% so với cùng kỳ. Trong đó, khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước thực hiện được 5.694,86 tỷ đồng, giảm 23,24% so với cùng kỳ, khu vực loại hình khác thực hiện được 12.681,29 tỷ đồng, tăng 62%.

Giá trị sản xuất ngành xây dựng theo giá so sánh quý IV/2022 ước thực hiện được 3.403,07 tỷ đồng, tăng 17,79% so với cùng kỳ. Trong đó, công trình nhà ở thực hiện được 2.264,23 tỷ đồng, tăng 44,53% so với cùng kỳ; công trình nhà không để ở thực hiện được 518,42 tỷ đồng, tăng 15,78%; công trình kỹ thuật dân dụng thực hiện được 516,38 tỷ đồng, giảm 31,79% và hoạt động xây dựng chuyên dụng thực hiện được 104,04 tỷ đồng, giảm 11,64%.

Giá trị sản xuất ngành xây dựng theo giá so sánh năm 2022 ước thực hiện được 11.234,56 tỷ đồng, tăng 11% so với cùng kỳ. Trong đó, công trình nhà ở thực hiện được 7.450,91 tỷ đồng, tăng 23,42% so với cùng kỳ; công trình nhà không để ở thực hiện được 1.867,35 tỷ đồng, tăng 5,19%; công trình kỹ thuật dân dụng thực hiện được 1.577,36 tỷ đồng, giảm 21,45% và hoạt động xây dựng chuyên dụng thực hiện được 388,94 tỷ đồng, tăng 12,59%.

5. Hoạt động doanh nghiệp

Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới năm 2022 đạt 1.744 doanh nghiệp, tăng 36,03% so với cùng kỳ năm 2021. Tổng số vốn đăng ký 12.702 tỷ đồng, bằng 76,31% so với cùng kỳ. Theo kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cho thấy doanh nghiệp lạc quan về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý IV/2022 với 37,62% doanh nghiệp đánh giá sẽ ổn định và tốt hơn so với quý III/2022.

a) Tình hình đăng ký doanh nghiệp  

Theo số liệu của Sở Kế hoạch và Ðầu tư TP Cần Thơ trong tháng 12/2022 đã cấp mới đăng ký kinh doanh cho 66 doanh nghiệp các loại hình với tổng vốn đăng ký 423,304 tỷ đồng. Lũy kế 12 tháng, cấp mới đăng ký kinh doanh cho 1.744 doanh nghiệp các loại hình, vượt 24,57% KH, tổng vốn đăng ký 12.702 tỷ đồng, đạt 79,38% KH. So cùng kỳ năm 2021, số doanh nghiệp đăng ký mới tăng 36,03% và số vốn đăng ký bằng 76,31%.

Lũy kế tính đến ngày 30/11/2022, tình hình doanh nghiệp biến động giải thể, bỏ địa điểm kinh doanh, tạm ngưng với tổng số 2.069 doanh nghiệp, trong đó 1.458 doanh nghiệp giải thể, bỏ địa chỉ kinh doanh, v.v… và có 611 doanh nghiệp ngừng có thời hạn.

b) Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp

Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý IV/2022 so với quý trước, kết quả: Có 37,62% số doanh nghiệp đánh giá tốt lên và 32,67% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn; 29,71% doanh nghiệp nhận định tình hình sản xuất kinh doanh không thay đổi. Dự kiến quý I/2023 so với quý IV/2022, có 39,6% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên; 22,77% số doanh nghiệp đánh giá tình hình vẫn còn khó khăn và 37,63% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh vẫn không thay đổi.

Về khối lượng sản xuất: Có 45,54% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất của doanh nghiệp quý IV/2022 tăng so với quý trước; 27,72% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất giảm. Xu hướng quý I/2023 so với quý IV/2022, có 39,6% số doanh nghiệp dự báo khối lượng sản xuất tăng; 22,77% số doanh nghiệp dự báo giảm.

Về đơn đặt hàng mới: Có 41,67% số doanh nghiệp đánh giá doanh nghiệp nhận được đơn đặt hàng mới quý IV/2022 tăng so với quý trước; 28,13% số doanh nghiệp đánh giá đơn đặt hàng mới giảm. Xu hướng quý I/2023 so với quý IV/2022, có 41,84% số doanh nghiệp dự báo đơn đặt hàng mới sẽ tăng; 20,41% số doanh nghiệp dự báo giảm.

Về đơn đặt hàng xuất khẩu: Quý IV/2022 so với quý III/2022 có 27,45% số doanh nghiệp khẳng định số đơn hàng xuất khẩu cao hơn; 23,53% số doanh nghiệp có đơn hàng xuất khẩu giảm. Xu hướng quý I/2023 so với quý IV/2022, có 30,00% số doanh nghiệp dự kiến tăng đơn hàng xuất khẩu; 18,00% số doanh nghiệp dự kiến giảm.

Theo kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cho thấy doanh nghiệp lạc quan về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý IV/2022 với 37,62% doanh nghiệp đánh giá sẽ ổn định và tốt hơn so với quý III/2022.

6. Hoạt động thương mại, dịch vụ

a) Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Hoạt động thương mại và dịch vụ, vận tải, tiếp tục phục hồi tích cực. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước quý IV/2022 tăng 5,54% so với quý trước và tăng 39,72% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2022, ước tăng 41,48% so với cùng kỳ, nhờ việc kiểm soát tốt dịch bệnh, các chính sách kích cầu, phục hồi phát triển kinh tế của các cấp ngành, cùng với sự nỗ lực từ các doanh nghiệp và hộ sản xuất kinh doanh cá thể.

Tháng 12/2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 11.125,97 tỷ đồng, tăng 5,63% so với tháng trước và tăng 34,51% so với cùng kỳ năm trước, cụ thể: Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 8.559,98 tỷ đồng, tăng 6,29% so tháng trước và tăng 26,81% so với cùng kỳ; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 1.271,99 tỷ đồng, tăng 8,38% so tháng trước và tăng hơn 2 lần so cùng kỳ; doanh thu du lịch lữ hành đạt 72,27 tỷ đồng, giảm 1,09% so tháng trước; dịch vụ khác ước đạt 1.221,72 tỷ đồng, giảm 0,90% so tháng trước và tăng 31,70% so cùng kỳ.

Ước tính quý IV/2022, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 31.966,96 tỷ đồng, tăng 5,54% so với quý trước và tăng 39,72% so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 24.573,65 tỷ đồng, tăng 6,08% so quý III/2022 và tăng 29,09% so cùng kỳ; lưu trú, ăn uống ước đạt 3.571,33 tỷ đồng, tăng 8,18% so quý III/2022 và tăng hơn 2 lần so cùng kỳ; du lịch lữ hành ước đạt 206,41 tỷ đồng, tăng 16,81% so quý III/2022; dịch vụ khác ước đạt 3.615,57 tỷ đồng, giảm 0,81% so quý III/2022 và tăng 53,98% so với cùng kỳ.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước năm 2022 đạt 118.082,30 tỷ đồng, tăng 41,48% so với cùng kỳ, cụ thể:

Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 90.272,13 tỷ đồng, tăng 32,27% so với cùng kỳ năm trước. Với sự góp mặt của nhiều kênh phân phối, bán lẻ tình hình lưu chuyển hàng hóa trên địa bàn khá ổn định, thông suốt, đáp ứng tốt nhu cầu của nhân dân, từ đó tạo đầu ra tại thị trường nội địa cho các doanh nghiệp.

Ngành dịch vụ lưu trú, ăn uống trải qua khoảng thời gian đầy khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh. Việc mở cửa trở lại và nới lỏng những hạn chế di chuyển kể từ đầu năm 2022 đã thúc đẩy hoạt động kinh doanh trở lại bình thường nên doanh thu tăng mạnh ước đạt 12.876,75 tỷ đồng, tăng hơn 2 lần so với cùng kỳ.

Năm 2022, thành phố diễn ra nhiều sự kiện lớn với nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ và vui chơi giải trí hấp dẫn (Khánh thành đền thờ vua Hùng, Lễ hội Bánh dân gian Nam Bộ lần thứ 9, Liên hoan đờn ca tài tử lần thứ 3…) đã tạo cú hích cho lĩnh vực du lịch, doanh thu du lịch lữ hành ước đạt 536,35 tỷ đồng, tăng hơn 10 lần so với cùng kỳ.

Doanh thu dịch vụ khác ước đạt 14.397,08 tỷ đồng, tăng 54,13% so với cùng kỳ năm 2021, do hầu hết các cơ sở dịch vụ đã hoàn toàn phục hồi mạnh mẽ sau khi thành phố đã kiểm soát tốt dịch bệnh.

b) Vận tải và bưu chính chuyển phát

Sau khi dịch bệnh được kiểm soát, các hoạt động vận tải dần được phục hồi, các doanh nghiệp vận tải đã đầu tư thêm một số phương tiện mới, và mở thêm các tuyến hoạt động, để khai thác có hiệu quả các tuyến vận tải trong nước.

Trong tháng 12/2022 tổng doanh thu vận tải, kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải và bưu chính, chuyển phát ước đạt 277,72 tỷ đồng, tăng 3,34% so tháng trước và tăng 22,67% so cùng kỳ. Ước tính quý IV/2022 đạt 830,16 tỷ đồng, giảm 6,45% so quý trước và tăng 19,15% so với cùng kỳ. Ước năm 2022 đạt 3.291 tỷ đồng, tăng 28,04% so cùng kỳ năm trước, cụ thể doanh thu vận tải hành khách ước đạt 711,06 tỷ đồng, tăng 46,31% so với cùng kỳ; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 1.874,94 tỷ đồng, tăng 22,29%; dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt  633,35 tỷ đồng, tăng 29,59% và bưu chính chuyển phát ước đạt 71,65 tỷ đồng, tăng 14,90% so với cùng kỳ.

Vận tải hành khách: Số hành khách vận chuyển trong tháng 12/2022 ước đạt 1.630,83 nghìn hành khách, tăng 5,02% so với tháng trước và tăng 20,84% so với cùng kỳ. Ước tính quý IV/2022, số hành khách vận chuyển đạt 4.566,04 nghìn hành khách, giảm 7,77% so với quý trước và tăng 26,80% so với cùng kỳ năm trước. Ước năm 2022, số hành khách vận chuyển ước đạt 25.414,08 nghìn hành khách, tăng 94,14% so với cùng kỳ.

Tháng 12/2022, số hành khách luân chuyển ước đạt 79.928,95 nghìn lượt hành khách.km, tăng 3,95% so tháng trước, tăng 23,14% so với cùng kỳ. Ước tính quý IV/2022, số hành khách luân chuyển đạt 223.592,47 nghìn lượt hành khách.km, giảm 19,62% so quý trước và tăng gần 5 lần so cùng kỳ. Ước năm 2022, số hành khách luân chuyển đạt 928.231,03 nghìn lượt hành khách.km, tăng 50,91% so với cùng kỳ.

Vận tải hàng hóa: Khối lượng hàng hóa vận chuyển tháng 12/2022, ước đạt 769,96 nghìn tấn, tăng so với tháng trước và tăng so với cùng kỳ lần lượt là 5,33%; 19,84%. Ước tính quý IV/2022, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 2.235,97 nghìn tấn, giảm 6,55% so với quý trước và tăng 16,83% so với cùng kỳ năm trước. Ước năm 2022, khối lượng hàng hóa vận chuyển ước đạt 10.114,80 nghìn tấn, tăng 22,29% so với cùng kỳ.

Trong tháng 12/2022, khối lượng hàng hóa luân chuyển ước tính đạt  126.733,95 nghìn tấn.km, tăng 3,33% so tháng trước, tăng 21,87% so với cùng kỳ. Ước tính quý IV/2022, khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 372.885,64 nghìn tấn.km, giảm 7,52% so với quý trước và tăng 12,58% so với cùng kỳ năm trước. Ước năm 2022, khối lượng hàng hóa luân chuyển ước tính đạt  1.647.394,31 nghìn tấn.km, tăng 19,59% so với cùng kỳ.

Bưu chính, viễn thông: Bưu chính chuyển phát tháng 12/2022 ước đạt 6,75 tỷ đồng, tăng 13,61% so tháng trước và tăng 31,08% so cùng kỳ. Quý IV/2022 ước đạt 22,41 tỷ đồng, tăng 38,22% so cùng kỳ. Ước năm 2022 đạt 71,65 tỷ đồng, tăng 14,90% so với cùng kỳ.

Tham mưu UBND thành phố chỉ đạo các đơn vị liên quan hỗ trợ đưa hộ sản xuất nông nghiệp tham gia sàn thương mại điện tử (đến 31/10/2022, có trên 18.044 hộ sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh được tạo tài khoản, đã đưa lên 2 sàn thương mại điện tử (Postmart, Vỏ sò) với 2.869 sản phẩm nông nghiệp, tổng số giao dịch trên 2 sàn đạt 13.378 giao dịch, tổng giá trị giao dịch trên 6,16 đồng) và ban hành Kế hoạch triển khai nền tảng địa chỉ số quốc gia gắn với bản đồ số trên địa bàn thành phố Cần Thơ (tổng số hộ gia đình là 274.725 hộ, trong đó số lượng hộ gia đình có địa chỉ số là 236.283 hộ; số lượng hộ gia đình không có địa chỉ nhà là 38.442 hộ). Thực hiện thẩm định vị trí xây dựng 69 trạm BTS (Viettel Cần Thơ 30 trạm, Viễn thông Cần Thơ 39 trạm) cho các doanh nghiệp phát triển hạ tầng mạng lưới trên địa bàn thành phố, qua đó, đã thống nhất xây dựng mới 33 trạm, yêu cầu khảo sát dùng chung 36 trạm, đạt tỷ lệ dùng chung 52%. Thẩm định chi phí di dời 02 trạm BTS (Viettel Cần Thơ 01 trạm, MobiFone 01 trạm); chi phí di dời tuyến cống bể của Viễn thông Cần Thơ trong dự án tuyến nối Quốc lộ 91 với tuyến tránh thành phố Long Xuyên.

 7. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân quý IV/2022, tăng 1,42% so với cùng kỳ năm 2021. CPI bình quân năm 2022, tăng 2,33% so với bình quân năm 2021. Tết Nguyên đán Quý Mão 2023 đã cận kề, đến thời điểm này tại hầu hết các hệ thống siêu thị, cửa hàng tiện ích và chợ truyền thống trên địa bàn đang khá sôi động để chuẩn bị phục vụ nhu cầu mua sắm của người dân vào dịp cuối năm. Nhiều hệ thống phân phối lớn cũng đang triển khai các chương trình khuyến mãi, giảm giá để đẩy mạnh tiêu thụ. Nguồn cung các mặt hàng thiết yếu cơ bản dồi dào, giá các mặt hàng không có biến động lớn.

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI): Tháng 12 năm 2022 giảm 0,10% so với tháng trước, tăng 1,54% so với cùng kỳ năm trước, bình quân quý IV và cả năm 2022 tăng lần lượt 1,42% và 2,33% so với cùng kỳ năm 2021.

Tháng 12 năm 2022, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính có 07 nhóm hàng tăng giá so với tháng trước, bao gồm các nhóm: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,24%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,01%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,49%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,39%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,50%; giáo dục tăng 0,02%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,05%. Bên cạnh các nhóm hàng có xu hướng tăng so với tháng trước, có 03 nhóm hàng giảm gồm: Thuốc và dịch vụ y tế giảm 0,02%; giao thông giảm 3,40%; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,18% và 01 nhóm hàng hóa có chỉ số giá ổn định so với tháng trước là nhóm Bưu chính viễn thông. 

 CPI bình quân quý IV/2022, tăng 1,42% so với quý cùng kỳ năm 2021, trong đó có 09 nhóm hàng tăng, 2 nhóm hàng hóa có xu hướng giảm. Một số nhóm hàng tăng phải kể đến: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,98%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,93%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 1,23%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 1,36%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 2,85%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,23%; giáo dục tăng 3,50%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,02%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 1,68%. 02 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá CPI bình quân quý IV giảm so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Giao thông giảm 0,58% và bưu chính viễn thông giảm 1,19%. 

CPI bình quân năm 2022, tăng 2,33% so với bình quân năm 2021. Có 4 nhóm hàng có mức tăng cao hơn so với mức tăng chung bao gồm: Đồ uống và thuốc lá tăng 2,93%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 2,81%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 2,47%; giao thông tăng 12,91%; 4 nhóm hàng có mức tăng thấp hơn so với mức tăng chung, gồm: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,68%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,02%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,16%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 1,65%; 3 nhóm hàng có CPI giảm so với năm 2021, bao gồm: Bưu chính viễn thông giảm 1,08%; giáo dục giảm 3,40% và văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,09%.

Các nguyên nhân tác động tăng/giảm đến giá CPI tháng 12

Các mặt hàng thực phẩm chủ yếu là thịt gia súc, gia cầm, các sản phẩm thịt chế biến (giò chả, thịt heo quay) có giá bán giảm trong tháng do giá heo hơi giảm cộng thêm sức mua giảm nên giá bán giảm.

Giá các loại trứng gia cầm tăng 2,01% do thị trường tiêu thụ khởi sắc trong những tháng cuối năm nhưng nguồn cung hạn chế đã tạo điều kiện cho giá trứng gia cầm tăng mạnh.

Giá rau tươi, khô và chế biến tăng 1,95%, nguyên nhân khiến các loại rau củ tăng giá mạnh là do ảnh hưởng thời tiết, mưa kéo dài khiến gốc của các loại rau xanh bị thối gây hư hỏng nặng, sản lượng trồng giảm thậm chí mất trắng. Thêm vào đó, chi phí đầu vào cho canh tác rau củ tăng so với cùng kỳ năm ngoái đã đẩy giá thành lên mốc mới khiến người trồng gặp khó khăn đầu ra nên nhà nông đã giảm diện tích.

Từ ngày 01/12, mỗi bình gas loại 12 kg đến tay người tiêu dùng tăng thêm 13.000 đồng, lên 438.000 đồng, do nhu cầu sử dụng nhiên liệu tăng nên người dùng sẽ phải trả thêm 1.083 đồng cho mỗi kg gas (tương đương 13.000 đồng một bình 12 kg) so với tháng trước. Giá gas tháng 12 tăng là do nhà cung cấp thế giới công bố giá nhiên liệu bình quân đạt 650 USD một tấn, tăng 40 USD so với tháng trước. Hiện giá gas trong nước phụ thuộc vào diễn biến thế giới với nguồn cung nội địa chủ động được khoảng 60% mức tiêu thụ.

Tại kỳ điều chỉnh ngày 21/12, mỗi lít xăng giảm 370-500 đồng, các mặt hàng dầu cũng hạ 70-150 đồng/lít, kg tuỳ loại. Theo đó, mỗi lít xăng RON 95-III giảm 500 đồng, về mức 20.700 đồng/lít. Xăng E5 RON 92 có giá mới 19.970 đồng, tức giảm 370 đồng, dầu hoả và dầu diesel cùng hạ thêm 70 đồng so với cách đây 10 ngày, lần lượt 21.830 đồng và 21.600 đồng/lít. Riêng dầu mazut giảm 150 đồng, chỉ còn 12.680 đồng/kg. Nguyên nhân, giảm do bình quân giá xăng thành phẩm 10 ngày qua giảm 1-1,3%, trong khi dầu tăng nhẹ nên giá trong nước được các nhà kinh doanh xăng dầu điều chỉnh giảm.

Các nguyên nhân tác động tăng/giảm đến giá CPI quý IV năm 2022

Trong quý, giá thịt heo, gia cầm, thịt chế biến, trứng gia cầm, các loại đậu và hạt là nguyên nhân tác động làm chỉ số giá nhóm thực phẩm giảm. Chủ yếu giảm do nguồn cung hàng hóa trong dân còn nhiều khi sức mua kém, người tiêu dùng hạn chế chi tiêu, đặc biệt là giá heo hơi liên tục giảm dẫn đến giá hàng hóa giảm.

Trong quý mặt hàng gas đã có 3 lần điều chỉnh (01 lần điều chỉnh giảm và 02 lần điều chỉnh tăng), tính chung quý 4 mặt hàng này tăng 16.000 đồng/bình 12kg. Tính từ đầu năm 2022 đến nay, giá gas bán lẻ trong nước đã có 5 lần tăng giá và 7 lần giảm giá. Nếu so với quý trước, mức giá bình quân mặt hàng này là 424.000 đồng/bình 12 kg, giảm 10.000 đồng, tương đương giảm 2,30% so với quý trước. Nguyên nhân giảm là do giá gas thế giới giảm đã ảnh hưởng đến giá gas trong nước nên các doanh nghiệp kinh doanh buộc phải điều chỉnh giảm tương ứng với giá thế giới. Một số loại gas có mức giá phổ biến như: Saigon Petro màu xám 12 kg có giá 438.000 đồng, Elf gas màu đỏ 12,5 kg có giá 491.500 đồng, PetroVietnam màu xám 12 kg có giá 415.500 đồng.

Các nhóm hàng thời trang (may mặc, mũ nón và giày dép) và các mặt hàng viễn thông (điện thoại) đều giảm so với quý trước do trong các tháng, siêu thị và cửa hàng tiện ích, cửa hàng kinh doanh có nhiều đợt khuyến mãi giảm giá vào các ngày 20/10, ngày black Friday, giáng sinh và tết dương lịch sắp tới... nhằm kích cầu mua sắm.

Chỉ số giá vàng, tháng 12/2022 tăng 0,80% so với tháng trước, tăng 2,94% so với cùng kỳ, bình quân quý IV và cả năm 2022 tăng lần lượt 2,07% và 2,27% so với cùng kỳ năm 2021.

Chỉ số giá đô la Mỹ, tháng 12/2022 giảm 2,69% so với tháng trước, tăng 5,37% so với so với cùng kỳ, bình quân quý IV tăng 6,62% so với cùng kỳ năm 2021, bình quân cả năm tăng 1,99% so với cùng kỳ.  

8. Tài chính, ngân hàng

a) Thu, chi ngân sách

Thu ngân sách nhà nước lũy kế thực hiện đến ngày 20/12/2022 ước tăng 18,26% so với cùng kỳ. Chi ngân sách nhà nước ước tăng 25,25% so với cùng kỳ, đảm bảo các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, thanh toán các khoản nợ đến hạn cũng như chi trả kịp thời cho các đối tượng theo quy định. 

Thu ngân sách nhà nước: Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn lũy kế thực hiện đến ngày 20/12/2022 đạt 15.303,05 tỷ đồng, bằng 87,16% dự toán HĐND thành phố giao, tăng 18,26% so với cùng kỳ. Cụ thể một số khoản thu chính như sau:

Thu nội địa đạt 10.814,20 tỷ đồng, bằng 101,86% so với dự toán HĐND thành phố giao, chiếm 70,67% tổng thu và tăng 19,26% so với cùng kỳ. Trong đó các khoản thu từ doanh nghiệp nhà nước; thu từ khu vực CTN, dịch vụ ngoài NN; thu từ hoạt động xổ số kiến thiết (bao gồm cả xổ số điện toán) chiếm ttrọng ln và ln lượt tăng 17,85%, 16,05% và 45,33% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, một số khoản thu vẫn còn giảm so cùng kỳ như: Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 16,22%; thuế sử dụng đất nông nghiệp giảm 95,04%; thu tiền bán nhà giảm 83,79%...

Thu cân đối từ hoạt động xuất, nhập khẩu đạt 428,88 tỷ đồng, bằng 85,78% so với dự toán HĐND thành phố giao, chiếm 2,80% tổng thu và giảm 32,73% so với cùng kỳ.

Chi ngân sách địa phương: Tổng chi ngân sách địa phương lũy kế thực hiện đến ngày 20/12/2022 đạt 13.544,57 tỷ đồng, bằng 84,51% dự toán HĐND thành phố giao, tăng 25,25% so với cùng kỳ. Trong đó:

Chi đầu tư phát triển đạt 7.590,08 tỷ đồng, bằng 87,64% dự toán HĐND thành phố giao, chiếm 56,04% tổng chi ngân sách địa phương và tăng 68,72% so với cùng kỳ.

Chi thường xuyên đạt 5.892,78 tỷ đồng, bằng 85,64% dự toán HĐND thành phố giao, chiếm 43,51% tổng chi ngân sách địa phương và giảm 4,45% so với cùng kỳ. Trong đó, chi cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo đạt 2.134,58 tỷ đồng, bằng 80,26% so với dự toán HĐND thành phố giao và tăng 7,41% so với cùng kỳ; chi cho sự nghiệp y tế đạt 351,13 tỷ đồng, bằng 69,28% so với dự toán HĐND thành phố giao và giảm 18,98% so với cùng kỳ.

b) Tín dụng ngân hàng

Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh thành phố chỉ đạo các tổ chức tín dụng trên địa bàn tăng cường các giải pháp huy động vốn, tập trung vốn tín dụng cho vay đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh và các lĩnh vực ưu tiên. Tiếp tục triển khai các giải pháp đến các ngân hàng thương mại thực hiện hỗ trợ lãi suất theo Nghị định số 31/2022/NĐ-CP ngày 20/5/2022 của Chính phủ về hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh. Nguồn vốn huy động và tổng dư nợ cho vay đến cuối tháng 12/2022 đều tăng cao hơn so với mức tăng cùng kỳ năm 2021, góp phần tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phục hồi sau dịch Covid-19. Nợ xấu đến cuối tháng 12/2022 là 2.200 tỷ đồng, chiếm 1,57% tổng dư nợ cho vay.

Hệ thống Ngân hàng thành phố Cần Thơ hiện có 48 chi nhánh tổ chức tín dụng và 07 Quỹ tín dụng nhân dân hoạt động.

Vốn huy động: Đến cuối tháng 12/2022 ước đạt 103.200 tỷ đồng, tăng 0,52% so với đầu tháng, tăng 11,00% so với đầu năm. Trong đó, vốn huy động VNĐ là 100.300 tỷ đồng, chiếm 97,19%, tăng 0,53%; ngoại tệ là 2.900 tỷ đồng, chiếm 2,81%, tăng 0,14% so với đầu tháng; vốn huy động ngắn hạn là 70.400 tỷ đồng, chiếm 68,22%, tăng 0,43%; vốn huy động trên 12 tháng là 32.800 tỷ đồng, chiếm 31,78%, tăng 0,72% so với đầu tháng.

Tổng dư nợ cho vay: Đến cuối tháng 12/2022 ước đạt 140.000 tỷ đồng, tăng 0,50% so với đầu tháng, tăng 16,07% so với đầu năm; phân theo loại tiền dư nợ cho vay VNĐ 133.000 tỷ đồng, chiếm 95,00%, tăng 0,51% so với đầu tháng; dư nợ cho vay ngoại tệ 7.000 tỷ đồng, chiếm 5,00% tổng dư nợ cho vay, tăng 0,34% so với đầu tháng; phân theo thời hạn dư nợ cho vay ngắn hạn 82.500 tỷ đồng, chiếm 58,93%, tăng 0,68% so với đầu tháng; dư nợ cho vay trung dài hạn 57.500 tỷ đồng, chiếm 41,07% tổng dư nợ cho vay, tăng 0,25% so với đầu tháng.

II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI

  1. Lao động, việc làm

Tình hình lao động, việc làm quý IV/2022 và năm 2022 tiếp tục đà phục hồi, lực lượng lao động, số người đang làm việc tăng so với quý trước và cùng kỳ năm 2021. Những ngày cuối năm 2022, nhu cầu việc làm tại Cần Thơ lại tăng cao, số lượng cần tuyển 1.388 vị trí việc làm.

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của thành phố Cần Thơ ước quý IV/2022 khoảng 619.996 lao động, tăng 5,58% tương đương 32.755 lao động so với quý trước; năm 2022 tăng 5,88% hay 34.419 lao động so cùng kỳ năm 2021. Thành phố đã chủ động khảo sát, dự báo thị trường lao động; đẩy mạnh việc kết nối hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động bằng nhiều hình thức, như tư vấn trực tiếp, tư vấn online; tuyên truyền, quảng bá giao dịch việc làm thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội; tổ chức các ngày hội việc làm; tổ chức các phiên giao dịch việc làm lưu động tại các trường học, địa phương.

Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc của thành phố ước quý IV/2022 là 595.916 lao động, tăng khoảng 4,80% tương đương 27.293 có việc làm quý III/2022. Năm 2022 tăng 7,07% lao động hay 39.326 lao động so với 556.590 lao động có việc làm năm 2021; số lao động thành thị chiếm 69,30% và số lao động Nam chiếm 60,06% so với tổng số 595.916 lao động năm 2022. Ngoài ra, trong tháng thành phố cung ứng lao động đi làm việc nước ngoài là 25 người, lũy kế từ đầu năm là 515 người.

Về cơ hội việc làm cho những người lao động tại ĐBSCL nói chung và Cần Thơ nói riêng, Trung tâm Dịch vụ Việc làm TP. Cần Thơ cho biết, thời điểm này, có 57 doanh nghiệp đang có nhu cầu tuyển dụng, số lượng cần tuyển 1.388 vị trí việc làm. Ngoài ra, trung tâm còn cho biết, hiện nhiều công ty, doanh nghiệp lớn trên địa bàn TP. Cần Thơ rất cần nhân lực, vì thế người lao động sẽ có nhiều cơ hội có việc làm nếu đáp ứng đủ các yêu cầu của nhà tuyển dụng.

2. Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội

a) Tình hình đời sống dân cư

Theo kết quả sơ bộ từ Khảo sát mức sống dân cư trong năm 2022, tình hình đời sống của hộ dân cư đã ngày càng cải thiện. Thu nhập bình quân đầu người/tháng (TNBQ) tháng 12/2022 khoảng 5.493,07 nghìn đồng, giảm (11,46%) so tháng trước. Ước năm 2022 TNBQ khoảng 5.195,97 nghìn đồng, tăng 8,38% so sơ bộ năm 2021. Chênh lệch thu nhập giữa nhóm 5 với nhóm 1 lũy kế đến tháng báo cáo 4,15 lần

Về thu nhập của người làm công ăn lương quý IV/2022 ước khoảng 7.051,2 triệu đồng/người/tháng tăng 5,41% so quý trước và tăng 35,84% so cùng kỳ năm trước do, năm 2021 ảnh hưởng dịch Covid-19 và năm 2022, các hoạt động sản xuất kinh doanh dần hồi phục, từng bước thích ứng với diễn biến của dịch bệnh. Ước tổng sản phẩm trên địa bàn tăng 12,64%, các khu vực kinh tế đều tăng so với cùng kỳ, nhất là các ngành sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 19,08%; sản xuất đồ uống 22,73%; dịch vụ lưu trú tăng 2,45 lần. Tuy nhiên, kinh tế - xã hội của thành phố vẫn đối mặt với những khó khăn, thách thức; giá cả các mặt hàng thiết yếu, đặc biệt là giá xăng, dầu không ổn định, giá nguyên liệu tăng cao, nguồn nguyên liệu bị thiếu hụt, không đủ cung ứng cho hoạt động sản xuất,… Nhà ở, thu nhập và đời sống của công nhân, người lao động, nhất là công nhân ở các khu công nghiệp vẫn còn nhiều khó khăn, mặc dù các doanh nghiệp đều thực hiện việc điều chỉnh lương tối thiểu vùng theo Nghị định 38/2022/NĐ-CP ngày 12/6/2022 của Chính phủ.

Nhằm nâng cao đời sống và giảm bớt khó khăn trong đời sống của người lao động. Liên đoàn Lao động thành phố và các cấp công đoàn đã tặng 23.823 suất quà với tổng trị giá 12.807 triệu đồng; tổ chức thăm và tặng 50 phần quà cho đoàn viên, công nhân lao động không có điều kiện về quê ăn Tết tại các tổ Tự quản Khu Nhà trọ công nhân trong đêm giao thừa, trị giá 300.000 đồng/người, tổng trị giá 15 triệu đồng; Chi hỗ trợ cho đoàn viên, người lao động bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 theo Quyết định số 3749/QĐ-TLĐ của Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam với số tiền gần 1.357 tỷ đồng. Liên đoàn Lao động thành phố trao tặng 300 thùng sữa Milo cho con CNVCLĐ thành phố, tổng trị giá 105 triệu đồng. Công đoàn các cấp đã vận động 43 CĐCS doanh nghiệp triển khai tăng chất lượng bữa ăn ca, với số tiền từ tăng thêm từ 5.000 đồng đến 30.000 đồng cho một công nhântiếp tục trích kinh phí hỗ trợ CNVCLĐ bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 cho 1.182 đoàn viên, và người lao động có hoàn cảnh khó khăn bị ảnh hưởng do dịch bệnh Covid-19 với tổng số tiền 2.424 triệu đồng. Công đoàn các cấp kịp thời thăm hỏi, tặng quà, động viên cán bộ đoàn viên CNVCLĐ có hoàn cảnh khó khăn, bệnh hiểm nghèo với số tiền 281 triệu đồng Thành phố thực hiện kịp thời chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà trọ cho người lao động theo Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ với số tiền 31.377,5 triệu đồng. Ngoài ra, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính gửi tặng 200 phần quà cho đoàn viên, người lao động là công nhân lao động có hoàn cảnh khó khăn, mắc bệnh hiểm nghèo, người nhiều năm không có điều kiện về quê đón Tết, người khó khăn do bị ảnh hưởng Covid-19 trên địa bàn thành phố, với tổng số tiền là 250 triệu đồng…

Với sự hỗ trợ trên, đời sống của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trên địa bàn thành phố đã an tâm sản xuất kinh doanh đưa tốc độ tăng trưởng GRDP năm 2022 của thành phố đạt mức cao so với vùng và cả nước.   

Chương trình xây dựng nông thôn mới trong năm đã có tác động tích cực, góp phần nâng cao đời sống người dân khu vực nông thôn, đẩy mạnh phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội khu vực nông thôn.

Trên địa bàn các huyện xuất hiện nhiều mô hình mới thúc đẩy cơ cấu lại ngành Nông lâm nghiệp và thủy sản theo hướng nông nghiệp công nghệ cao gắn với tiến trình đô thị hóa mang lại nhiều hiệu quả tích cực. Qua đó, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của thành phố theo hướng nhanh và bền vững. Trong năm ước xét công nhận 4 xã nông thôn mới (NTM) nâng cao và 01 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu; đến ngày 25/12/2022, có 22/36 xã đạt chuẩn NTM nâng cao và 01/36 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu. Tuy nhiên, người nông dân gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất nông nghiệp do, giá phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, giá thức ăn chăn nuôi liên tục tăng và giá bán không ổn định đã tác động lớn đến thu nhập của người sản xuất lúa, cây ăn quả, chăn nuôi.

b) An sinh xã hội

Năm 2022, người có công với cách mạng được hưởng trợ cấp ưu đãi thường xuyên với kinh phí trên 120 tỷ đồng; tiếp nhận, xét duyệt và giải quyết chế độ chính sách ưu đãi Người có công với Cách mạng đối với 1.565 trường hợp. Tổ chức Hội nghị biểu dương Người có công với cách mạng tiêu biểu thành phố giai đoạn 2018 - 2022; tặng 17.978 phần quà với tổng kinh phí 12.114 triệu đồng. Đã vận động xã hội hóa để có thêm nguồn lực chăm lo, chăm sóc Người có công với số tiền quy đổi là 2.430 triệu đồng. Các quận, huyện còn vận động xã hội hóa tặng 2.082 phần quà với tổng kinh phí 749 triệu đồng. Tổ chức đi thăm quan, điều dưỡng tập trung và điều dưỡng tại nhà với số tiền 2.427 triệu đồng.

Trợ cấp thường xuyên cho hơn 325 nghìn lượt đối tượng bảo trợ xã hội ở ngoài cộng đồng với tổng kinh phí hơn 167 tỷ đồng, đảm bảo 100% đối tượng bảo trợ xã hội được trợ giúp xã hội đúng và đủ theo Nghị định số 20/2021/NĐ-CP. Phối hợp các quận, huyện chi trả trợ cấp Tết Nguyên đán Nhâm Dần năm 2022 đến đối tượng bảo trợ xã hội, hộ nghèo, người cao tuổi với tổng số kinh phí hơn 43 tỷ đồng. Tham mưu Ủy ban nhân dân thành phố trình Chủ tịch nước tặng Thiệp chúc thọ Người cao tuổi thọ 100 tuổi cho 57 người. Tháng hành động Vì người cao tuổi năm 2022, Ủy ban nhân dân thành phố tổ chức đoàn thăm chúc thọ, mừng thọ người cao tuổi 100 tuổi trên địa bàn thành phố; các quận huyện thành lập đoàn chúc thọ, mừng thọ người cao tuổi 70, 75, 80, 85, 90, 95, 100 và trên 100 tuổi.

Tổ chức triển khai các dự án, chính sách thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững năm 2022 trên địa bàn thành phố. Tổ chức 09 lớp tập huấn các quận, huyện về quy trình, phương pháp công cụ rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2022; đảm bảo các chính sách của Chương trình đến với hộ nghèo, hộ cận nghèo; cấp 4.837 thẻ BHYT cho hộ nghèo, người dân tộc thiểu số vùng khó khăn và người đang sinh sống trên địa bàn đặc biệt khó khăn kinh phí 963 triệu đồng, đạt 100% đối tượng cần hỗ trợ được cấp thẻ BHYT miễn phí; hỗ trợ kinh phí mua thẻ BHYT cho 28.974 người cận nghèo số tiền 5.742 triệu đồng; đạt 100% so với số người cận nghèo cần hỗ trợ; hỗ trợ xây dựng 487 căn nhà Đại đoàn kết hỗ trợ cho hộ nghèo, hộ cận nghèo khó khăn về nhà ở, kinh phí 29.220 triệu đồng từ nguồn vận động xã hội hóa của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố, quận, huyện và các tổ chức chính trị, xã hội, đoàn thể.

Phối hợp Thành Đoàn tổ chức thành công Lễ phát động Tháng hành động Vì trẻ em năm 2022; Chủ trì, phối hợp các sở, ngành, đoàn thể liên quan triển khai và tổ chức tốt Chuỗi hoạt động hưởng ứng Tháng hành động Vì trẻ em năm 2022;  Phối hợp Trường Hy Vọng  hoàn thành việc khảo sát, tư vấn tuyển sinh và chốt lập danh sách được 16 trẻ em mồ côi bởi dịch Covid-19 có nguyện vọng và được sự đồng ý của người giám hộ hợp pháp, để làm các thủ tục nhập học năm học 2022 - 2023. Phối hợp Ủy ban nhân dân quận Ô Môn tổ chức Tết Trung thu cho 300 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, trẻ em người dân tộc trên địa bàn quận Ô Môn với kinh phí trên 80 triệu đồng.

3. Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm

Thành phố Cần Thơ tiếp tục thực hiện thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19 theo Nghị quyết số 128/NQ-CP của Chính phủ, đạt được nhiều kết quả tích cực trong kiểm soát tình hình dịch Covid-19, khôi phục các hoạt động kinh tế xã hội. Ngành Y tế tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng chống dịch trong tình hình mới theo phương châm thích ứng an toàn, linh hoạt.

Theo báo cáo của Sở Y tế, trong tháng (15/11-14/12/2022), toàn thành phố có 725 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết, giảm 14% so tháng trước và không có trường hợp tử vong; 206 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng, tăng 10,75%; 743 trường hợp tiêu chảy giảm 14,00% so tháng trước và ghi nhận 14 trường hợp mắc Covid-19. Tính chung cả năm 2022, có 6.668 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết, không có tử vong, tăng 5.871 so cùng kỳ năm trước; 2.154 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng, tăng 2,07 lần so cùng kỳ năm trước.

Công tác phòng, chống dịch Covid-19: Trong tháng ghi nhận 14 trường hợp mắc, 03 trường hợp tử vong; tăng 05 ca mắc và 02 ca tử vong so với tháng trước. Tính đến 14/12/2022 đã ghi nhận 8.593 trường hợp mắc mới và 376 ca tử vong và tổng số liều vắc xin phòng Covid-19 đã được tiêm là 3.566,72 nghìn liều cho người dân trên địa bàn.

Công tác phòng, chống HIV/AIDS: Tổng số người nhiễm HIV hiện còn sống tính đến thời điểm 14/12/2022 là 4.593 người và số người tử vong do HIV/AIDS của thành phố tính đến thời điểm trên là 2.612 người. Hiện đang điều trị ARV cho 4.793 trường hợp, điều trị Methadone cho 317 trường hợp.

Công tác an toàn vệ sinh thực phẩm: Trong tháng không ghi nhận vụ ngộ độc thực phẩm xảy ra trên địa bàn thành phố. Ngành Y tế chủ trì, phối hợp với các Ngành có liên quan luôn kiểm tra, giám sát, hướng dẫn đảm bảo an toàn thực phẩm đối với các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, nhất là thức ăn đường phố tại khu vực xung quanh trường học; các bếp ăn tập thể trường học, cơ quan, doanh nghiệp, cơ sở cung cấp thức ăn…Năm 2022 đã xử lý vi phạm hành chính 17 cơ sở với số tiền 123,5 triệu đồng và hướng dẫn khắc phục 111 cơ sở vi phạm an toàn vệ sinh thực phẩm.

4. Giáo dục và đào tạo

a) Giáo dục phổ thông

Hoạt động giáo dục đào tạo đã trở lại bình thường sau khi dịch Covid-19 được kiểm soát. Kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT có 11.425 thí sinh trúng tuyển vào các trường THPT công lập năm học 2022 - 2023, đạt 99,37% so với kế hoạch. Số học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở vào học trung học phổ thông đạt 83,57%; kết quả Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2022, tỷ lệ tốt nghiệp THPT toàn thành phố đạt 98,43% (kể cả thí sinh tự do).

Ngành Giáo dục Cần Thơ với tinh thần quyết tâm cao đã thực hiện tốt công tác tuyên truyền, tổ chức các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ của đất nước, của thành phố và của Ngành; tổ chức, tham gia các kỳ thi, hội thi; thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục

Tỷ lệ huy động học sinh đúng độ tuổi năm học 2022 - 2023: Mẫu giáo đạt 99,10% so kế hoạch, Tiểu học đạt 100%, THCS đạt 99,04%. Kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT có 11.425 thí sinh trúng tuyển vào các trường THPT công lập năm học 2022 - 2023, đạt 99,37% so với kế hoạch. Số học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở vào học trung học phổ thông đạt 83,57%.

Giáo dục phổ thông đầu năm học 2022-2023, thành phố có 447 trường phổ thông; số trường đạt chuẩn quốc gia của thành phố là 339 trường đạt tỷ lệ 75,84%. Số giáo viên phổ thông trực tiếp giảng dạy là 9.536 người, bao gồm: 4.254 giáo viên tiểu học; 3.329 giáo viên trung học cơ sở và 1.953 giáo viên trung học phổ thông. Cũng trong đầu năm học này, thành phố 201.514 học sinh phổ thông, bao gồm: 98.748 học sinh tiểu học; 68.365 học sinh trung học cơ sở và 34.401 học sinh trung học phổ thông. Bình quân cấp tiểu học 31,61 học sinh/lớp, trung học cơ sở 37,46 và trung học phổ thông 36,71 học sinh/lớp.

b) Về đào tạo nghề

Hiện nay trên địa bàn thành phố có 71 cơ sở giáo dục nghề nghiệp (GDNN), trong đó 14 trường cao đẳng (trong đó có 05 trường CĐ đặt cơ sở tại Cần Thơ), 08 trường trung cấp (trong đó có 01 phân hiệu), 21 trung tâm GDNN và 28 cơ sở khác có dạy nghề. Dự kiến trong tháng 12/2022, các cơ sở GDNN tuyển mới và đào tạo nghề cho 1.433 người. Lũy kế từ đầu năm đã tuyển mới và đào tạo 47.911 người, đạt 106,46% kế hoạch, tăng 19,42% so với năm 2021.  

5. Hoạt động văn hóa, thể thao

Triển khai thực hiện tốt cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và “Chương trình xây dựng nông thôn mới”; Tuyên truyền cổ động và tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch kỷ niệm ngày lễ, sự kiện của đất nước và thành phố; tổ chức Liên hoan “Dân ca Nam Bộ thành phố Cần Thơ” năm 2022. Tham gia Ngày hội Văn hóa, Thể thao và Du lịch đồng bào Khmer Nam Bộ lần thứ VIII tại tỉnh Sóc Trăng. Tổ chức Lễ xuất quân Đoàn Thể thao thành phố Cần Thơ tham dự Đại hội Thể thao toàn quốc lần thứ IX năm 2022 tại tỉnh Quảng Ninh. Tổ chức Hội nghị Xúc tiến, quảng bá du lịch “Cần Thơ - Đô thị miền sông nước” năm 2022, tại thành phố Hà Nội. Các phong trào tập luyện thể dục thể thao quần chúng được đẩy mạnh và tổ chức rộng khắp các địa phương; tổ chức, tham gia và đạt thành tích cao các giải thể thao các cấp và quốc tế.

a) Lĩnh vực văn hóa

Tổng kết Liên hoan các mô hình văn hóa tiêu biểu thành phố Cần Thơ năm 2022; tổ chức, tham gia 30 cuộc hội thi, hội diễn các cấp; Lễ Khai trương “Không gian sách tiếng Pháp” với hơn 100 đại biểu tham dự. Triển khai Kế hoạch thực hiện Hội báo Xuân và cuộc thi Ấn phẩm Xuân Quý Mão 2023 thành phố Cần Thơ.

Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa: Tổ chức phục vụ khách tham quan tại các di sản văn hóa; thực hiện hồ sơ khoa học của 306 hiện vật. Thực hiện công tác giáo dục truyền thống và di sản văn hóa trong học đường năm học 2022 - 2023. Tiếp tục thực hiện hồ sơ đề nghị xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia đối với Đình Thuận Hưng. Tiếp tục thực hiện hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể “Nghề làm bánh tráng ở phường Thuận Hưng, quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ”.

Trung tâm Văn hóa thành phố: Tổ chức chương trình “Sân chơi tài tử” tại cầu đi bộ Ninh Kiều định kỳ vào thứ Sáu hàng tuần, 03 chương trình nghệ thuật định kỳ tại bến Ninh Kiều vào thứ Bảy hàng tuần và Nhà hát Tây Đô đã tổ chức biểu diễn 88 suất và tham gia vòng chung kết cuộc thi “Tài năng diễn viên sân khấu cải lương Trần Hữu Trang - 2022”, 01 cá nhân đạt huy chương Bạc.

b) Thể dục, thể thao

Thể dục thể thao quần chúng: Số người tập luyện thể dục thể thao (TDTT) thường xuyên khoảng 430 nghìn người, số gia đình thể thao khoảng 95 nghìn gia đình. Số câu lạc bộ TDTT: 1.350 CLB và 100% trường học đảm bảo chương trình giáo dục thể chất. Phối hợp tổ chức Giải Marathon Quốc tế Di sản Cần Thơ, vào ngày 04/12/2022 với khoảng 6.000 vận động viên (VĐV) tham dự.

Thể thao thành tích cao: Báo cáo Hội đồng nhân dân thành phố giám sát việc thực hiện chế độ, chính sách đối với huấn luyện viên (HLV), VĐV thể thao. Báo cáo UBND thành phố đánh giá tình hình hoạt động Câu lạc bộ bóng đá Cần Thơ tham dự mùa Giải hạng Nhất quốc gia năm 2022. Tham dự 87 giải thể thao, đạt 471 huy chương các loại; tham dự Đại hội Thể thao toàn quốc lần thứ IX năm 2022, với 216 người gồm 01 Trưởng đoàn, 04 Phó trưởng đoàn, 08 thành viên và 45 HLV, 158 VĐV.

6. Tình hình trật tự an toàn xã hội

Tính từ ngày 15/11/2022 đến ngày 14/12/2022, xảy ra 4 vụ tai nạn giao thông đường bộ, giảm 03 vụ so cùng kỳ; chết 4 người, giảm 02 người so với cùng kỳ; không có người bị thương, giảm 02 người so với cùng kỳ. Lũy kế 12 tháng/2022, tổng số vụ tai nạn giao thông 75 vụ (đường bộ 74 vụ và đường thủy 01 vụ), 73 người chết, 11 người bị thương.

Tháng 12/2022, trên địa bàn không xảy ra vụ cháy, vụ nổ nào. Lũy kế 12 tháng/2022, xảy ra 13 vụ cháy, thiệt hại 01 người chết do bị ngạt khói khi đưa ra ngoài; thiệt hại tài sản thống kê được 1.531 triệu đồng; đã làm rõ nguyên nhân dẫn đến 11/13 vụ cháy, còn 02 vụ cháy chưa thống kê được thiệt hại tài sản và nguyên nhân vụ cháy và xảy ra 01 vụ nổ, thiệt hại 01 người bị thương nhẹ; thiệt hại về tài sản thống kê được 01 trụ bơm xăng trị giá khoảng 30 triệu đồng.

7. Tình hình môi trường

Vi phạm môi trường: Trong tháng 12 số vụ vi phạm về môi trường đã phát hiện là 05 vụ, số vụ đã xử lý là 04 vụ, với số tiền xử phạt là 25 triệu đồng. So với tháng trước, số vụ vi phạm đã phát hiện tăng 05 vụ, và tăng 05 vụ so với cùng kỳ năm trước.

Tính lũy kế đến hết tháng báo cáo số vụ vi phạm đã phát hiện là 33 vụ, số vụ đã xử lý là 24 vụ, với tổng số tiền xử phạt là 629,25 triệu đồng. So với cùng kỳ năm trước, số vụ vi phạm đã phát hiện giảm 30 vụ.

Về thiên tai: Trong tháng 12/2022, xảy ra 01 vụ mưa lớn, 01 vụ lốc. Tính từ đầu năm đến nay, xảy ra 10 vụ mưa lớn, 31 vụ lốc, 01 vụ sét và 11 vụ sạt lở bờ sông, và 05 vụ nước dâng (triều cường) đã làm thiệt hại ước tính 5.306 triệu đồng.

8. Một số giải pháp chủ yếu

Một là, tiếp tục thực hiện nhất quán phương châm “Sống chung an toàn với dịch Covid-19”; đẩy mạnh triển khai các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công điện số 755/CĐ-TTg ngày 25/8/2022.

Chủ động ứng phó kịp thời với các biến chủng mới của dịch Covid-19 và các loại dịch bệnh theo mùa như sốt xuất huyết, chân tay miệng,... Bảo đảm nguồn cung về thuốc, trang thiết bị, vật tư, sinh phẩm y tế phục vụ khám, chữa bệnh và phòng chống dịch.

Hai là, thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, lao động, việc làm. Thực hiện tốt công tác trợ giúp đột xuất, bảo đảm người dân khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ trợ kịp thời, khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống. Nâng cao chất lượng đào tạo nghề, từ đó cải thiện chất lượng nguồn nhân lực và tăng năng suất lao động nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các doanh nghiệp.

Ba là, quyết liệt triển khai nhanh, hiệu quả nhiệm vụ, dự án đầu tư thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội năm 2022-2023, tập trung vào các lĩnh vực cấp bách và có khả năng hấp thụ tốt, dự án có tính liên vùng, chương trình hỗ trợ, trợ cấp cho người lao động; khơi thông các điểm nghẽn, nút thắt về đất đai, thủ tục hành chính, thể chế để đẩy nhanh thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công, tháo gỡ khó khăn cho các dự án chậm thực hiện, đặc biệt là các dự án trọng điểm, quy mô lớn, có sức lan tỏa, nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế; đẩy nhanh việc hoàn thiện và triển khai các quy hoạch.

Bốn là, nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo; điều hành của các ngành, các cấp; siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính trong quản lý nhà nước trên các lĩnh vực; thực hiện nghiêm quy chế làm việc, kỷ luật phát ngôn; công khai, minh bạch; tạo môi trường sản xuất kinh doanh bình đẳng./.

CỤC THỐNG KÊ TP CẦN THƠ  

Các tin khác
Tình hình KTXH tháng 3 và quý I năm 2023 - 24/03/2023
Tình hình KT-XH tháng 02 năm 2023 - 28/02/2023
Tình hình KT-XH tháng 01 năm 2023 - 30/01/2023
Tình hình KT-XH tháng 11 năm 2022 - 25/11/2022
Tình hình KT-XH tháng 10 năm 2022 - 25/10/2022
Tình hình KT-XH quý III và 9 tháng năm 2022 - 26/09/2022
Tình hình KT-XH tháng 08 năm 2022 - 24/08/2022
Tình hình KT-XH tháng 07 năm 2022 - 25/07/2022
Tình hình KT-XH tháng 06 năm 2022 - 25/06/2022
Tình hình KT-XH tháng 05 năm 2022 - 07/06/2022